“Một điểm sáng được xem là yếu tố thành công mà Việt Nam đạt được trong năm 2012 là vẫn ổn định được giá trị của VND”...
Kinh tế Việt Nam năm 2013 được dự báo ra sao? Liệu những khó khăn
của năm 2012 có còn tiếp tục ảnh hưởng tới nền kinh tế trong năm 2013?
Bên lề hội thảo “Dự báo và chính sách kinh tế Việt Nam 2013” diễn ra vào
ngày 30/11, TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc
hội đã chia sẻ xung quanh chủ đề này.
TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Ông đánh giá thế nào về tình hình kinh tế Việt Nam trong năm 2012?
Nền
kinh tế của Việt Nam qua 11 tháng đầu năm 2012 cũng giống bức tranh
kinh tế chung của thế giới và khu vực với chủ đề chung là màu xám. Nhưng
nhìn ra xa hơn và nhìn vào những yếu tố vi mô thì trong nền màu xám đã
có ánh sáng màu hồng trong tương lai.
Năm 2012 là năm có tốc độ
tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong 10 năm liên tiếp. Nhưng nếu nhìn
riêng từng quý trong năm 2012 thì thấy quý sau tăng trưởng hơn quý
trước. Điều này cho thấy nền kinh tế có dấu hiệu tự chuyển biến, cộng
thêm sự tác động của điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Vậy “ánh sáng màu hồng” ít ỏi trong bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2012 là gì, thưa ông?
Nếu
so sánh 6 tháng đầu năm 2007 với 6 tháng đầu năm của 2012 thì thấy
rằng, 6 tháng của năm 2007, Việt Nam thu hút được khoảng 8 tỷ USD vào
nền kinh tế để tăng dự trữ nhưng phải bơm một lượng tiền rất lớn ra thị
trường và tạo ra áp lực lạm phát cho năm 2008 và năm 2009.
Còn
năm 2012, cũng với lượng tiền khoảng gần 10 tỷ USD nhưng đảm bảo được
lượng tiền hút vào, không tác động lớn đến tăng giá hàng tiêu dùng và
các yếu tố vĩ mô khác. Như vậy, trong 5 năm, chúng ta đã rút được kinh
nghiệm, bài học trong điều hành kinh tế vĩ mô từ năm 2007 đến năm 2011
và tạo được tiền đề cho năm 2012. Đây chính là điểm sáng!
Một
điểm sáng khác được xem là yếu tố thành công mà Việt Nam đạt được trong
năm 2012 là vẫn ổn định được giá trị của VND, làm tăng niềm tin của
người dân vào điều hành vĩ mô của Chính phủ. Tỷ giá phản ánh rất chân
thật tốc độ tăng giá tiêu dùng, chỉ số CPI đã được giữ và giảm dần.
Đây
là tiền đề quan trọng cho năm 2013 và cả giai đoạn 2013-2015 dần dần
đưa tốc độ tăng trưởng vượt qua tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng.
Như vậy đảm bảo được tăng trưởng thật và đời sống của người dân cũng
được củng cố.
Thành công tiếp theo của năm 2012 là các chính
sách an sinh xã hội trong bối cảnh thu ngân sách rất khó khăn. Nhìn vào
số thu ngân sách nhà nước năm 2012 thấy chưa bao giờ số lượng các địa
phương hụt thu ngân sách lớn như hiện nay.
Điều may mắn giúp
chúng ta giữ được tỷ lệ bội chi cân bằng là giá dầu thô đã tăng so với
giá dự toán là 8 USD/thùng và sản lượng khai thác vượt dự toán đã góp
phần bù lại được hụt thu của các địa phương.
Theo ông, những khó khăn nào trong năm 2012 sẽ tiếp tục ảnh hưởng trong năm 2013?
3
điểm nhấn quan trọng nhất, tồn tại nhất của năm 2012 sẽ tiếp tục kéo
dài sang năm 2013 là: hàng tồn kho cao, lãi suất cho vay của ngân hàng
đối với các doanh nghiệp cao và số lượng doanh nghiệp bị phá sản lớn.
Tuy
lãi suất đến cuối năm 2012 đã giảm nhưng đối với các lĩnh vực sản xuất
thực sau khi trừ chi phí để còn lãi 14 - 15% trả nợ lãi vay ngân hàng
đối với các nhà quản trị doanh nghiệp là cực kỳ khó khăn.
Bên
cạnh đó, lần đầu tiên trong tháng 11/2012, số lượng doanh nghiệp dừng
sản xuất và phá sản lớn hơn số lượng doanh nghiệp đăng ký mới. Điều này
như một tín hiệu cảnh báo: nếu năm 2013 những chính sách vĩ mô không
điều hành tốt thì số lượng người lao động bị mất việc làm sẽ tăng lên
rất lớn.
Khi doanh nghiệp đóng cửa sẽ không có nguồn thu ngân
sách, sẽ phải bội chi. Khi bội chi hoặc phải đi vay hoặc phải làm một
cách nào đó để chi thì áp lực lên ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2013
từ những vấn đề của năm 2012 sẽ rất lớn.
Ông có thể chia sẻ định hướng điều hành chính sách lãi suất năm 2013 của Chính phủ sẽ như thế nào?
Sang
năm 2013, chúng ta phải xác định được đâu là nút thắt, đâu là điểm tắc
để có thể tác động vào và tạo hiệu ứng lan tỏa đối với nền kinh tế. Tôi
nghĩ rằng, một trong những vấn đề là phải giải quyết được mối liên hệ
giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp.
Trong mối liên hệ đó có thể nhìn vào nhiều chiều, trong đó có việc đáp ứng nguồn vốn cho các doanh nghiệp.
Chúng
ta không thể duy ý chí để nói là sẽ dừng lại hết các khoản vay tín dụng
ngân hàng cho các doanh nghiệp vì nền kinh tế của Việt Nam trong 10 năm
qua tăng trưởng là do đầu tư và gắn liền với tăng trưởng tín dụng.
Tôi
nghĩ rằng trong năm 2013, vấn đề quan trọng nhất là tạo được sự gắn kết
trách nhiệm cộng sinh. Bây giờ ngân hàng nợ xấu rất lớn nhưng phải yêu
cầu doanh nghiệp có chỉ số báo cáo tài chính rất đẹp thì mới cho vay
tiếp mà lại quên một điều là doanh nghiệp “xấu” như thế là do một thời
các ngân hàng đã nới lỏng chính sách tín dụng.
Hiện nay, những
dự án, công trình đang trong hoàn cảnh đó, nền kinh tế vĩ mô đang khó
khăn, ngân hàng phải thấy rõ trách nhiệm với doanh nghiệp, với xã hội và
phải tính toán bài toán kinh tế là nếu ngân hàng có dừng cho vay thì có
đòi được nợ hay không.
Đến thời điểm này, Bộ Luật Dân sự quy
định không được cho vay quá 150% lãi suất cơ bản, nhưng hiện tượng này
vẫn còn diễn ra. Chúng ta có thể áp dụng các biện pháp hành chính bên
cạnh điều hành theo quy luật của nền kinh tế thị trường, và chúng ta vẫn
còn dư địa dành cho các biện pháp quản lý khác.